Thành Phố Hồ Chí Minh (TP.HCM
)
là Thành Phố
lớn,
Thành
Phố
có nền
kinh tế
lâu đời
và
ổn
định.
Vào
thập
niên 50
đến
60 được
mệnh
danh là
Ḥn Ngọc Viễn Đông.
Nhưng
ngày nay tụt hạng trầm
trọng,
lạc
hậu,
thua kém
xa so với
các thành phố
cùng khu vực.
Nh́n từ trên cao ta có thể nhận xét
TP.HCM là một đô thị lớn nhưng
đă và đang xuống cấp trầm trong. 80 % là nhà nhỏ
lụp xụp. Kiến trúc lộn xộn pha trộn cũ mới.
Diện tích nhà Thành Phố nhỏ hẹp. Nhà lấn đường
lấn hẻm nhà thụt ra nhà lơm vào. Diện tích nhà
đa dạng, đầu voi đuôi chuột nh́n chung nhà ở
trong Thành Phố chật hẹp và đắt đỏ.
Đặc biệt điều cần giải quyết là vấn nạn giao
thông đô thị Thành Phố. Đều tác động ảnh hưởng
trực tiếp đến nền kinh tế. Giao thông Thành Phố
xuông cấp trầm trọng, kẹt xe hàng ngày hàng giờ,
một ngày mấy tiếng đồng hồ vào giờ cao điểm.
TP.HCM dân cư đông đúc hơn 8 triêu người và hàng
triệu phương tiện giao thông mỗi ngày. Những con
đường cuả Thành Phố nhỏ hẹp, xuống cấp trầm
trọng không đáp ứng được sự bùng nổ cuả phương
tiện giao thông cá nhân và công cộng. Quy hoạch
giao thông và đô thị đi sau quá xa phát triển
cần có của Thành Phố.
Đường Trên Cao
T́m Lời Giải
Chung Cho
Giao Thông Ở Hà Nội và TP. HCM
Vị thế của Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh
Thủ đô Hà Nội là thành phố có bề dày
lịch sử một ngh́n năm văn hiến. Một thành phố
xinh đẹp, cổ kính, có nhiều cảnh quan, di tích
lịch sử tầm vóc toàn cầu, hiếm thấy trong số thủ
đô của nhiều nước trên thế giới.
Với diện
tích 927km2 và dân số trên 3,5 triệu
người, nhưng tỷ lệ mặt đường trên diện tích
chung của Hà Nội chỉ là 1,04%, trên đó đang lưu
thông 198.170 xe ô tô và 1.931.486 xe gắn máy,
chưa kể xe đạp và các loại xe thô sơ khác. Hệ
thống giao thông công cộng có 927 xe buưt và
3.500 xe taxi, trong năm 2007 chỉ đáp ứng 10%
nhu cầu đi lại của người dân.
TP. Hồ Chí
Minh được h́nh thành khoảng 375 năm trước đây,
là nơi hội tụ hai nền văn hóa Đông – Tây, c̣n là
dấu ấn lịch sử thời kỳ mở nước xuống phía Nam
của dân tộc Việt Nam.
Hiện nay
là trung tâm công nghiệp, thương mại và dịch vụ
lớn nhất nước với diện tích 2.095,2km2
và dân số hơn 7 triệu người. Tỷ lệ mặt đường
trên diện tích chung của đô thị 1,23%, có khoảng
340.000 xe ô tô các loại và trên 3,5 triệu xe
gắn máy. Hệ thống giao thông công cộng có 3.250
xe buưt và 8.000 xe taxi, mỗi năm chỉ đáp ứng
khoảng 6,2% nhu cầu đi lại của người dân.
Trên cơ sở
đô thị cũ, hai thành phố này được người Pháp quy
hoạch lại cách đây hơn 100 năm. Hà Nội được qui
hoạch cho 1 triệu dân, TP. Hồ Chí Minh cho 1,5
triệu dân.
Trong gần
một thế kỷ qua do hoàn cảnh chiến tranh vệ quốc
kéo dài, hai đô thị trên không được phát triển
và mở rộng, hầu như giữ nguyên trạng, đặc biệt
là kết cấu hạ tầng. Nhưng ngược lại, cả hai
thành phố đều phải dung nạp số lượng lớn người
nhập cư, nhất là trong thời kỳ đổi mới, phát
triển kinh tế…
Đến nay,
cả hai thành phố đều đă chịu sức ép quá tải do
cơn lốc đô thị hóa gây ra và hiện là hai thành
phố có mức độ kẹt xe, ùn tắc giao thông vào bậc
nhất trong khu vực. Việt Nam được xếp đầu bảng
trong danh sách các quốc gia có tai nạn giao
thông chết người cao nhất trên thế giới.
Tuy nhiên,
vị trí lịch sử và vai tṛ hiện tại của Hà Nội và
TP. Hồ Chí Minh là không thể thay thế được đối
với Việt Nam.
Do đó,
việc giải quyết vấn đề đô thị quá tải cũng như
nạn kẹt xe, ùn tắc giao thông ở Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh không thể coi là việc riêng của
hai thành phố lớn này mà là của cả quốc gia.
Thiết nghĩ cần có sự chỉ đạo chặt chẽ và tham
gia tích cực hơn nữa của các cơ quan quản lư Nhà
nước ở cấp vĩ mô.
Lời giải chung ở tầm vĩ mô
Nhà nước
cần sớm có một chiến lược hoàn chỉnh về phát
triển đô thị cho Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, nhằm
giải quyết hai mục tiêu chính là: Khắc phục sự
quá tải giao thông hiện nay, đồng thời bảo đảm
cho hai thành phố này phát triển bền vững, để
duy tŕ vị trí lịch sử và vai tṛ đầu tàu trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Khắc phục hậu quả:
1. Cần mở
rộng không gian của hai thành phố theo đúng công
năng và dân số đă quy hoạch. Nhanh chong giăn
dân ra các khu ngoại thành đang xây dựng và dự
kiến xây dựng trong tương lai, kể cả những đô
thị vệ tinh, để giảm áp lực dân số và phương
tiện giao thông cá nhân.
2. Nghiên
cứu thiết lập một số nút giao thông lập thể để
thay thế cho ṿng xoay và những vị trí nút cổ
chai trong nội đô, cũng như xây dựng hệ thống
đường vượt trên cao (fly-over) ở những khu vực
cho phép để giải tỏa nạn kẹt xe.
3. Từng
bước hạn chế và cải thiện nạn kẹt xe, ùn tắc
giao thông nội đô, giảm thiểu tai nạn giao
thông, nhất là tai nạn chết người bằng các biện
pháp tổng hợp “t́nh thế và lâu dài” theo một lộ
tŕnh cụ thể, có tiến độ cho từng thời kỳ.
4. Tăng
cường tuyên truyền, giáo dục và vận động người
dân hiểu biết “văn hóa đô thị”, “thượng tôn pháp
luật”, đồng thời áp dụng mạnh mẽ các biện pháp
chế tài để xử phạt những người cố t́nh vi phạm.
Đưa thành phố vào kỷ cương nề nếp của đô thị
công nghiệp văn minh, hiện đại.
Phát triển bền vững:
1. Gấp rút
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phương tiện cho
các hệ thống giao thông công cộng mới như metro,
nonorail… Những phương tiện này sẽ từng bước
“chia lửa” với xe buưt và xe taxi hiện có, để
hạn chế dần phương tiện giao thông cá nhân. Trên
cơ sở đó, chuẩn bị h́nh thành mạng lưới giao
thông công cộng hiện đại, được quản lư từ các
trung tâm điều khiển với các thiết bị tiên tiến.
2. Hạn chế
xây dựng công tŕnh dân sinh ở các khu vực trung
tâm, và các khu phố cổ mà tương lai có hướng bảo
tàng, bảo tồn. Ưu tiên đầu tư vào các khu, các
quận mới ngoại thành, kể cả các đô thị vệ tinh
với đầy đủ tiện nghi để thu hút dân cư. Mặt khác
tiến hành chỉnh trang đô thị, nên tập trung vào
kết cấu hạ tầng đang bị khiếm khuyết, hư hỏng,
xuống cấp làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái
và đời sống của người dân.
Những vấn
đề được nêu trên đều là những công việc rất khó
khăn và phức tạp đ̣i hỏi phải đầu tư sức người
và khối lượng vật chất to lớn, vừa khẩn trương
nhưng cũng lâu dài. Nhanh chậm sẽ tùy thuộc vào
quyết tâm của các cấp lănh đạo, của sự đồng
thuận xă hội và sự hưởng ứng, ủng hộ tích cực
của người dân ở hai thành phố lớn này.
|